Tiểu sử và binh nghiệp Nguyễn_Khánh

Nguyễn Khánh sinh ngày 8 tháng 11 năm 1927 tại Trà Vinh, miền Tây Nam phần Việt Nam, trong một gia đình điền chủ giàu có. Thời niên thiếu, do gia đình có điều kiện nên ông được học hành đầy đủ. Năm 1944, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Cần Thơ với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Năm 1945, sau khi Cách mạng tháng 8 nổ ra, đang học lớp Đệ nhất (lớp 12 bây giờ), ông bỏ học tham gia phong trào Việt Minh tại địa phương một thời gian ngắn.

Giữa tháng 7 năm 1946, sau khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, ông bỏ Việt Minh và nhập ngũ vào Quân đội Pháp. Do có trình độ Tú tài, ông được theo học khóa 1 Nguyễn Văn Thinh tại trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt, khai giảng ngày 15 tháng 7 năm 1946. Ngày 1 tháng 7 năm 1947 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy[3] và được điều đi phục vụ ở Tiểu đoàn 2 Vệ binh Nam Việt giữ chức vụ Trung đội trưởng.

Quân đội Liên hiệp Pháp

Đầu năm 1948, chuyển biên chế sang Quân đội Liên hiệp Pháp, ông được cử đi du học và tốt nghiệp khóa Đông Dương tại Học viện Quân sự Coetquidan và Võ bị Saint Cyr, Pháp. Thời kỳ này ông lấy tên là "Raymond Khánh". Sau khi mãn khóa học, về lại đơn vị và ngày 1 tháng 7 cùng năm ông được thăng cấp Trung úy. Tháng 12 cuối năm, ông là sĩ quan duy nhất được cử đi du học lớp huấn luyện Nhảy dù tại trường Nhảy dù Pau (Pháp), thụ huấn bằng dù T.7 và Phi cơ Ju.52. Ngày 1 tháng 6 năm 1949, ông được cử làm sĩ quan tùy viên cho Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân.

Đầu năm 1950, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Đại đội trưởng Đại đội Nhảy dù Biệt lập (một trong các Trung đội trưởng dưới quyền của ông lúc bấy giờ là Trung úy Đỗ Cao Trí). Ngày 1 tháng 8 năm 1951, Đại đội Biệt lập được biến cải thành Tiểu đoàn 1 Nhảy dù, ông được giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng. Ban đầu, Tiểu đoàn đóng tại Chí Hòa (Sài Gòn). Cuối năm Tiểu đoàn chuyển ra Bắc, tham gia chiến dịch tại Hòa Bình trong thời gian 3 tháng.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Tháng 3 năm 1952, khi chính thức chuyển sang phục vụ Quân đội Quốc gia, ông được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 22 Việt Nam (22e BVN). Tháng 8 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tá và chuyển đi làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 13 Việt Nam (13e BVN), đồn trú tại Cần Thơ. Đầu năm 1953, ông được cử giữ chức Tiểu khu trưởng Biệt khu Cần thơ. Cuối năm này, ông được thăng cấp Trung tá kiêm chức vụ Chỉ huy trưởng Liên đoàn Lưu động số 11 tân lập tại Cần Thơ.

Tháng 4 năm 1954, ông được điều về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Trưởng phòng 6. Giữa tháng 9, bàn giao chức vụ Trưởng phòng 6 lại cho Trung tá Trần Đình Lan. Tháng 11, ông được cử đi học lớp tham mưu tại Trường Tham mưu Trung cấp Paris, Pháp.

Đầu tháng 3 năm 1955, sau khi mãn khóa học từ Pháp về nước, ông được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Phân khu Cần Thơ kiêm Tỉnh trưởng Cần Thơ. Ngày 10 tháng 3 năm 1955, ông chủ toạ buổi lễ hợp tác của Thiếu tá Nguyễn Thành Đầy[4] thuộc Lực lượng Hòa Hảo Dân xã, đem 1.500 quân thuộc quyền về quy thuận Chính phủ Quốc gia tại Cần Thơ. Cuối tháng 3, ông được cử giữ chức vụ Thanh tra trưởng của Lực lượng Nhảy dù. Giữa tháng 6, ông được chuyển về Trung ương giữ chức vụ Tham mưu phó tại Bộ Tổng tham mưu. Ngày 1 tháng 7, ông được cử làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng đặc trách Không quân. Ngày 20 tháng 8, bàn giao chức vụ Phụ tá Không quân lại cho Thiếu tá Trần Văn Hổ.[5] Trung tuần tháng 9, ông được cử làm Chỉ huy phó Chiến dịch Hoàng Diệu, dưới quyền Chỉ huy trưởng là Đại tá Dương Văn Minh.